Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

Chuyện hơn 20 năm trước

VIỆN ĐÀO TẠO MỞ RỘNG I: 
NHỮNG CÂU CHUYỆN CHƯA KỂ TỪ VÀI BA MƯƠI NĂM TRƯỚC…
_______________________________________

Dòng sông rng mênh mông cun cun chy v xuôi, đôi b rp bóng nhng hàng cây xanh ngt. Nhng đoàn thuyn thênh thang xuôi ngược gia dòng…

Có khi nào nhng người du khách trên các con thuyn đó – và c nhng người thuyn trưởng đang ung dung điu khin thuyn trong nhng hành trình bình yên kia - cht nghĩ đến nhng tia nước nh đu tiên trên ngun xa đã tng khó nhc thoát ra t lòng đt, tháng ngay tích t không ngng đ ri có được con sông hùng vĩ đang nâng đ nhng hành trình tt đp hôm nay???

Thái Thanh Sơ

Năm 1945, ngay từ khi nền dân chủ cộng hòa vừa thành lập,, dân tộc Việt Nam đã phải anh dũng gồng mình đương đầu với 30 năm chiến tranh ác liệt và cuối cùng đã chiến thắng hai đế quốc mạnh hàng đầu thế giới. Chính sách cấm vận trong hơn 10 năm sau đó của đế quốc Mỹ và bè lũ lại tiếp tục âm mưu cô lập nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa với phần lớn thế giới – kể cả các nước láng giềng có truyền thống giao lưu từ xưa trong khu vực ASEAN – hòng kìm hãm nhân dân Việt Nam trong đói nghèo, lạc hậu.
Chủ trương ĐỔI MỚI của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thập kỷ 80 của thế kỷ trước đã có một tác động quyết định trong việc đưa Việt Nam phát triển nhằm thoát khỏi vị trí của một quốc gia đói nghèo và tiến lên trên con đường hội nhập quốc tế bình đẳng về mọi phương diện,

Phần I: Nóng bỏng, rối rắm…và mờ mịt…
Kinh tế xã hội phát triển nhanh chóng đã bộc lộ rõ rệt những nhược điểm cơ bản của hệ thống giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực.trước đó.Trước đòi hỏi của giai đoạn phát triển kinh tế xã hội mới, nhân lực có của Việt Nam vừa yếu vừa thiếu: thiếu về số lượng, về ngành nghề và yếu về chất lượng, kiến thức và nhất là kỹ năng trong những lĩnh vực kinh tế mũi nhọn. Nền giáo dục và đào tạo trong nước lúc đó – kể cả sự bổ sung của nguồn đào tạo hàng năm được gửi sang các nước Đông Âu và Liên Xô cũ  – hoàn toàn không đáp ứng nhu cầu mới mẻ và to lớn của xã hội đương thời.
Đảng và Nhà nước đã kịp thời thấy rõ nhu cầu bức thiết đó và đã đưa ra phương châm chỉ đạo chiến lược : Giáo dục là quốc sách hàng đầu, kèm theo nhiều chủ trương, nghị quyết và khuyến cáo đẩy mạnh đổi mới giáo dục và đào tạo.
Thế nhưng những chủ trương cụ thể về mục tiêu và phương thức  thực hiện một cuộc cách mạng – đổi mới thực sự trong hệ thống giáo dục và đào tạo thì đội ngũ chuyên gia trong cả nước hoàn toàn đang lúng túng…
Nội dung chính của việc đổi mới hệ thống giáo dục – đào tạo trong thời kỳ này tập trung vào hai mục tiêu chủ yếu.

Mục tiêu thứ nhất, có tính chiến lược dài hạn trong suốt hàng chục năm sau là: Xác định đúng nội dung, yêu cầu của việc phân luồng, phân loại đào tạo nguồn nhân lực sau Trung học sao cho đầu ra của hệ thống đào tạo trong từng giai đoạn đáp ứng đúng với nhu cầu thực sự của kinh tế - xã hội đồng thời cũng phù hợp nhất với khả năng tài chính, hoàn cảnh xã hội và năng lực thực sự của từng đối tượng được đào tạo.
Mục tiêu thứ hai, vừa là yêu cầu cấp bách trong ngắn hạn nhưng cũng vừa đóng góp vào chiến lược giáo dục và đào tạo lâu dài” Tìm hiểu, thí điểm tiến đến sử dụng phổ cập những phương thức và loại hình đào tạo mới, hiện đại nhằm bổ sung, hỗ trợ cho loại hình đào tạo truyền thống được thực hiện trong nước từ hàng trăm năm nay, qua nhiều chế độ chính trị trong 4 thời kỳ lịch sử: Thời kỳ trước Cách mạng Tháng 8  hệ thống giáo dục của thực dân Pháp thực hiện trong hơn 80 năm kết thúc bằng một dự án cải cách dở dang do Hoàng Xuân Hãn đề xướng nhưng chưa được thực hiện; thời kỳ hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, thời kỳ hội nhập quá độ giữa nền giáo dục Miền Bắc XHCN với nền giáo dục được thực hiện do chính quyền ngụy Sài gòn trước đó trong vùng tạm chiếm và cuối cùng là thời kỳ sau năm 1980.

Nhiều đoàn cán bộ giáo dục ở cấp Bộ, ngành được cử đi học tập kinh nghiệm các nước – chủ yếu là các quốc gia phát triển phương Tây mới bắt đầu có quan hệ với Việt Nam. Nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục người Việt yêu nước trên thế giới cũng đã gửi thư, góp ý, thậm chí có người còn vài ba lần về nước tham dự hội thảo, thảo luận với chuyên gia trong nước và  xin được trực tiếp trình bày ý kiến với các nhà lãnh đạo Nhà nước và ngành giáo dục như Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Tạ Quang Bửu v..v..
Vào thời kỳ này, toàn thế giới đang bắt đầu sôi sục tiến bước vào một kỷ nguyên mới: của loài người: kỷ nguyên của Nền Kinh tế mới – Nền kinh tế tri thức – Nền kinh tế học tập - cho nên ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhất là ở các nước phát triển, đều đang có những phong trào và chủ trương cải cách, đổi mới giáo dục của từng nước.

Hai phương hướng có ảnh hưởng quan trọng đến tư duy của các nhà quản lý giáo dục Việt Nam lúc ấy là chủ trương xây dựng Đại học 2 giai đoạn của Pháp và chủ trương xây dựng các Đại học cộng đồng địa phương của Mỹ.
Từ rất lâu trước năm 1980, hệ thống đại học Pháp – và ở cả khôi các quốc gia sử dụng Pháp ngữ - người ta chủ trương nhập học tự do sau trung học (admis d’office). Ngoại trừ các trường đào tạo bác sĩ y khoa và kỹ sư các chuyên ngành có tổ chức thi tuyển sinh vào trường, tất cả các đại học (Univerrsité) khác đều nhận sinh viên tốt nghiệp Tú tài (Baccalauréat) vào thẳng học một năm dự bị (année préparatoire), cuối năm có một kỳ thi rất ngặt nghèo tuyển sinh vào giai đoạn chuyên ngành. Thông thường tỷ lệ rơi rụng của kỳ thi này lên đến 70, 80%. Do năng lực thu nhận của hệ thống đại học Pháp rất lớn, phương thức này có vẻ biểu hiện được việc “tạo điều kiện học tập bình đẳng cho mọi người”  Sau khi tốt nghiệp Trung học, ai không muốn học nghề và đi làm đều có thể “thử sức” trong 1 năm – thậm chí vài ba năm – xem mình có theo học đại học được không? Sau vài ba năm, nếu thực sự thấy rõ trình độ và khả năng của mình mà nản lòng thì đành rút lui tìm đường khác! Tuy nhiên đứng về phía quốc gia thì đây là một sự lãng phí ghê gớm vì hàng năm đất nước phải bỏ ra một khoản chi phí đào tạo rất lớn mà chẳng thu được gì. Đối với những thanh niên giữa đường đứt gánh thì thiệt hại càng lớn hơn: Không những lãng phí tiền nong, họ đã còn lãng phí vài năm tuổi thanh xuân để bắt đầu lại từ đầu.
Từ những năm 80 của thế kỷ trước, cuối thời Bộ trưởng Giáo dục Joseph Fontanet (1973 – 1993), và tiếp đó là những bước tiến mạnh mẽ hơn thời Bộ trưởng Lionel Joseph (1993 – 1997) nhiều nhà cải cách giáo dục Pháp đã đưa ra mô hình đại học hai giai đoạn 2 + 2: Năm học dự bị đối với sinh viên vào các trường đại học không qua thi tuyển được nâng thành một giai đoạn đào tạo gọi là ĐẠI HỌC ĐẠI CƯƠNG và kết thúc được cấp chứng chỉ ĐHĐC – Diplôme d’ Etudes Universitaires générales – DEUG – Trong chương trình học 2 năm, có phần kiến thức đại cương chuẩn bị cho giai đoạn chuyên ngành về sau nhưng cũng có một số kiến thức thực hành của giai đoạn chuyên ngành (DEUG avec obtions). Sinh viên sau 2 năm ĐHĐC, nếu không tiếp tục học chuyên ngành để lấy bằng Cử nhân (Lycense) thì cũng có kiến thức nghề trình độ trung cấp về một chuyên ngành nào đó để có thể tham gia thị trường lao động có hiệu quả hoặc nếu tham gia học các trường dạy nghề (Arts et métiers) thì nội dung học được giảm bớt và thời gia đào tạo rút ngắn. Sau vài năm thí điểm, chương trình đại học 2 giai đoạn với ĐHĐC có chuyên ngành, nhiều nhà trường đại học ở Pháp thực hiện phương thức đào tạo này và được đông đảo sinh viên hào hứng chấp nhận.
Năm 1993, GS Bùi Trọng Liễu, giáo sư thực thụ Đại học Lille, Chủ tịch Hội trí thức người Việt ở Pháp và Nữ Luật sư Joelle Duy Tân, giáo sư Đại học Paris IV - là 2 trong số những đồng tác giả chính của mô hình đào tạo DEUG avec obtions - đã sang Việt Nam trong suốt 3 tuần lễ để giới thiệu mô hình này với các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam cũng như trao đổi chi tiết với nhiều nhà giáo Việt Nam.
Cũng trong thời kỳ đó Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp Việt Nam cử một số cán bộ nghiên cứu đi tìm hiểu về mô hình các trường đại học cộng đồng – Community College - ở Mỹ.
Hệ thống giáo dục và đào tạo của Mỹ từ trước vẫn có xu hướng thực dụng hơn nhiều so với đường lối đào tạo thiên về “hàn lâm” như ở các quốc gia Pháp ngữ. Ngoài hệ thống các trường đại học nổi tiếng – trong đó một số rất lớn trường hàng đầu  là trường tư thục - ở các bang và các thành phố lớn của Mỹ có một hệ thống trường Cao đẳng cộng đồng – Community College – công lập nhằm đáp ứng nhu cầu học tập tại chỗ của nhân dân. Chương trình đào tạo hai năm ở cao đẳng cộng đồng Mỹ gần giống như chương trifng DEUG có chuyên ngành ở Pháp sau này: ngoài những kiến thức đại cương cơ bản cần thiết cho những ai muốn tiếp tục học lên chương trình đại học về sau, người ta rất chú trọng đến một số kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp – trình độ trung cấp – như: kế toán, thư ký, tin học thực hành, sửa chữa cơ khí, điện, điện tử, quảng cáo và tiếp thị v..v..Mục đích của các trường Cao đẳng cộng đồng cũng là chuẩn bị cho một bộ phận sinh viên tốt nghiệp học tiếp lên đại học, còn một số  (tỷ lệ thường khá lớn) sau khi tốt nghiệp thì trực tiếp tham gia thị trường lao động với những tri thức nghề nghiệp được trang bị khá tốt và sau một thời gian, nếu có điều kiện và còn có nguyện vọng thì vẫn có kiến thức cơ bản đủ để tham gia học cao hơn theo các phương thức đào tạo thường xuyên – continuing formation.

Kết quả của những quá trình nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm quốc tế nói trên là từ năm học 1986 ngành giáo dục đại học Việt Nam đưa ra phương thức đào tạo đại học theo 2 giai đoạn : 2 + 2 – giai đoạn Đại học đại cương 2 năm và giai đoạn đại học chuyên ngành 2 - 3 năm. Hầu hết các trường đại học trong nước đều thực hiện chương trình đào tạo đó, Các trường đại học thành lập những Khoa Đại học đại cương, ở Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học quốc gia Hà Nội thậm chí còn thành lập Trường Đại học đại cương để quản lý sinh viên trong giai đoạn 2 năm đầu. Tuy nhiên về thực chất thì tinh thần chương trình đào tạo hoàn toàn như cũ, việc ngắt ra một giai đoạn đại học đại cương chỉ là sự phân đôi chương trình đào tạo cũ, sinh viên tốt nghiệp đại học đại cương chỉ là để học tiếp lên giai đoạn 2, nếu không học tiếp thì cái chứng chỉ ĐHĐC và những kiến thức học được trong 2 năm chẳng biết để làm gì (và không có một sự thừa nhận nào của thị trường lao động!)
Ở một số địa phương chưa đủ điều kiện thành lập trường đại học thì Bộ giáo dục cùng với địa phương cũng cho phép thành lập một số Cao đẳng cộng đồng.
Tuy nhiên những Cao đẳng cộng đồng này nhanh chóng trở thành những trường Cao đẳng nghề thông thường vì kiểu đào tạo theo mô hình cao đẳng cộng đồng của Mỹ hoàn toàn không hội nhập được với hệ thống giáo dục đại học Việt Nam mà cũng không thể tạo ra nguồn nhân lực trung cấp cho xã hội tín nhiệm sử dụng.Vì vậy, chẳng bao lâu (quãng 7.8 năm sau) mọi thứ trở lại như cũ. Từ năm học 1998 hệ thống đại học Việt Nam hoàn toàn xóa bỏ kiểu đào tạo 2 giai đoạn. Các trường cao đẳng cộng đồng cũng nhanh chóng biến tướng thành những cao đẳng nghề hay cao đẳng thông thường.

Có thể thẳng thắn xem rằng đấy là một lần thử nghiệm thất bại. (Tuy rằng cho đến nay trong ngành giáo dục chưa có văn bản nào chính thức đánh giá và tổng kết)

Phần II: Một bước đệm cần thiết: Viện Đào tạo mở rộng…và quá trình chuẩn bị.
Tuy nhiên nhiệm vụ tìm tòi phương thức và loại hình đào tạo mới, phù hợp với nhu cầu bức thiết của xã hội đương đại vẫn là vấn đề rất lớn cần được giải quyết. Nhiều nhà nghiên cứu giáo dục Việt Nam vẫn tiếp tục tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế, chủ yếu là ở các quốc gia láng giềng trong khu vực có điều kiện đôi phần tương đồng.
Một khái niệm mới được các nhà giáo dục Việt Nam bắt đầu làm quen: khái niệm OPEN LEARNING mà chúng ta dịch là đào tạo mở. Chúng ta bắt đầu nghe đến một số nhà trường MỞ rất gần gũi về mặt địa lý với Việt Nam như : Hongkong Open Learning Institute – Indira Gandhi Open University, SukhoThai Thammathirat Open University, Universitas Ter Buka…
Theo hướng đó, năm 1990, Bộ Giáo dục và đào tạo quyết định thành lập 2 đơn vị: Viện Đào tạo Mở rộng 1 ở Hà Nội và Viện Đào tạo Mở rộng 2 ở TP Hồ Chí Minh với kỳ vọng chính  là nghiên cứu thí điểm nhằm tìm tòi những loại hình và phương thức đào tạo nguồn nhân lực sau Trung học đáp ứng cho yêu cầu bức thiết của đất nước.

Viện Đào tạo Mở rộng 1 được giao cho một nhà giáo lão thành đầy nhiệt huyết là Kỹ sư Trần Đình Tân, nguyên Phó trưởng Khoa Vô tuyến điện tử trường ĐH bách khoa Hà Nội, nguyên Vụ trưởng Vụ Đại học tại chức, đảm nhiệm chức vụ Viện trưởng với cơ sở vật chất ban đầu là ngôi nhà B, một trong 4 ngôi nhà chính của khu Đông dương học xá cũ (trừ một gian tầng hầm).
Bước đầu mò mẫm, Viện Đào tạo mở rộng 1 tổ chức một số Trung tâm theo kiểu dạy nghề: Trung tâm Tiếng Anh, Trung tâm Tin học, đào tạo theo các chương trình chứng chỉ A, B của Bộ Giáo dục và đào tạo, Trung tâm cơ khí sửa chữa xe máy, mỗi khóa đào tạo 3 – 4 tháng với sĩ số khoảng 25 – 30 người/lớp, giáo viên chủ yếu là mới, Viện chỉ có 5,6 cán bộ quản lý như các ông Nguyễn Ngọc Luyến, Nguyễn Văn Ninh, Nguyễn Ngọc Hồng….

Đông dương học xá 1955
Bước ngoặt quan trọng có tính chất quyết định giai đoạn phát triển về sau là sự gặp gỡ của ông Trần Đình Tân với ông  Nguyễn Kim Truy – kiến trúc sư của Viện Đại học Mở  sau này. Năm 1991, ông Nguyễn Kim Truy vừa tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế tại Ba Lan về nước mấy năm, được phong Phó giáo sư và đang đảm nhiệm chức vụ Chủ nhiệm Khoa Kỹ sư Kinh tế Hóa chất trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Trong thời gian học tâp nghiên cứu ở Ba Lan – một quốc gia khá gần gũi với Phương Tây và nhất là sau 2 năm tham gia đoàn chuyên gia Đại học tại Algérie một quốc gia quan trọng trong Cộng đồng Pháp ngữ – TS Nguyễn Kim Truy  biết đến và bắt đầu nghiên cứu tìm hiểu về loại hình đào tạo từ xa.
Ông Trần Đình Tân sau khi, trao đổi với ông Nguyễn Kim Truy thì lập tức tác động với Ban Giám hiệu ĐH Bách khoa HN và đề nghị Bộ GD&ĐT bổ nhiệm ông Truy về làm Phó Viện trưởng Viện ĐT Mở rộng, chuẩn bị thay thế mình sắp nghỉ hưu. Sau khi ông Tân nghỉ hưu, Bộ nhanh chóng bổ nhiệm ông Nguyễn Kim Truy làm Viện trưởng Viện Đào tạo Mở rộng 1..
*Việc đầu tiên của ông Truy làm sau khi đảm nhiệm chức vụ Viện trưởng là vận dụng tín nhiệm của mình với lãnh đạo Bộ và lãnh đạo các trường đại học bạn cũng như quan hệ cá nhân để xây dựng một tập thể hạt nhân đồng chí đồng tâm, tìm cách đưa về dưới mọi hình thức một đội ngũ cốt cán ban đầu.
Chuyển chính nhiệm về Viện có các ông: Nguyễn Đăng Sửu, Phan Văn Quế từ ĐH SP Hà Nội1, Lê Văn Thanh từ ĐHSP Hà Nôi 2, Phan Trọng Phức mới xong thời gian công tác từ Liên Xô về. Một số cán bộ nhiệt tình và rất có tâm huyết nhưng không thể chuyển hẳn về như các ông Thái Thanh Sơn, Lê Văn Nhương, Nguyễn Văn Thanh  từ Đại học Bách khoa, Hồ Phong Tư, Nguyễn Văn Luật từ Văn phòng chính phủ, Vũ Tiến Cảnh từ Tổng cục Du lịch, Nguyễn Ngọc Dũng từ trường đại học Văn hóa… thì liên hệ để trường bạn, cơ quan bạn và Bộ GD đồng ý cho biệt phái sang làm việc tại Viện Đào tạo Mở rộng. Ngoài những cán bộ chính thức chuyển về công tác chính nhiệm hay kiêm nhiệm, PGS Nguyễn Kim Truy còn liên hệ chặt chẽ với một số nhà khoa học và nhà giáo dục hàng đầu trong nước có cùng tâm huyết với sự nghiệp đổi mới giáo dục nhu: GS TS Lâm Quang Thiệp, GS Vũ Văn Tảo, TS Lê Viết Khuyến, TS Hoàng Minh Luật, TS Vũ Cao Phan…ở Bộ Giáo dục và Đào tạo họp thành một nhóm nòng cốt hỗ trợ nhau tiến hành nghiên cứu.
*Một việc thứ hai có tầm quan trọng rất to lớn mà Viện trưởng Nguyễn Kim Truy đã sớm thực hiện được là vấn đề tham gia và hội nhập vào cộng đồng quốc tế các tổ chức cải cách và đổi mới giáo dục và đào tạo.
Cần nhấn mạnh là : Khác hẳn với nhiều đơn vị khác trong ngành giáo dục và đào tạo, hàng năm có kinh phí đối ngoại rất lớn thường sử dụng cho những đợt “”tham quan, thị sát kiêm du lịch giải trí ở nước ngoài“ cho lãnh đạo và cán bộ trong cơ quan, Viện Đào tạo Mở rộng 1 không hề được ngân sách cấp  kinh phí loại này. Các cán bộ trong Viện – từ Viện trưởng trở đi – đều tận dụng quan hệ bằng hữu quốc tế của mình, tìm kiếm sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế và các trường bạn ở nước ngoài để tổ chức những chuyến đi tham quan, thị sát thực sự bổ ích và có chất lượng, với thành phần tham gia tối thiểu và đúng đối tượng – nhiều đoàn đại biểu quan trọng cũng chỉ có 1 thành viên!
Năm 1991 Viện trưởng Nguyễn Kim Truy một mình tham dự tổ chức đào tạo từ xa quốc tế của khối Pháp ngữ - CIFFAD – Cooperation Internationale francophone de formation à distance – tại Mauritanie. Sang năm 1992 Viện cử Ông Thái Thanh Sơn – cũng một mình - tham gia Séminaire internationlel d’ études post-doctorales – hội thảo quốc tế nghiên cứu trình độ sau tiến sĩ về sử dụng multimedia trong đào tạo từ xa tổ chức tại quốc đảo Mauritius và tiếp đó là tại Đại học quốc tế Bordeaux, Cộng hòa Pháp – Ecole Internationale de Bordeaux.. Viện Đào tạo Mở rộng Hà Nội chính thức trở thành thành viên của CIFFAD và của ACCT – Hiệp hội văn hóa khối Pháp ngữ.
Cơ sở vật chất thiếu, nhân lực thiếu. kinh phí không có nhân lực trong thời gian 2 năm 1991 – 1992, một  đội ngũ các nhà giáo dục, các nhà trí thức Việt Nam tâm huyết, nhiệt tình, vô tư, đã tập hợp lại hỗ trợ cho Giáo sư Nguyễn Kim Truy viết nên một trang sử “TAY KHÔNG BẮT GIẶC” hiếm có xưa nay trên con đường chuẩn bị cho việc thành lập Viện Đại học Mở Hà Nội sau này.

Phần III: Hệ B – hệ mở rộng ở bậc đại học, được và mất và những chuyện hiểu lầm  kéo dài…
Kể từ năm 1956, sau khi Hòa bình lập lại trên toàn Miền Bắc chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa quyết định chính thức thành lập 5 trường đại học công lập: ĐH Bách khoa, ĐH Tổng hợp, ĐH Kinh tế - kế hoạch, ĐH Nông lâm và ĐH Sư phạm, cùng hoạt động với trường ĐH Y Dược đã có từ trước. Cho đến những năm 1975 – 76, ngay cả trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ ác liệt nhất các trường đại học đều được ngân sách nhà nước hoàn toàn bao cấp. Sinh viên đại học không phải đóng học phí mà còn đương nhiên được lĩnh một khoản học bổng (và hưởng chế độ tem phiếu cung cấp).
Còn nhớ quãng năm 1958-60 học bổng hàng tháng của sinh viên ĐHBK là 18 đồng, sinh viên được ở ký túc xá nội trú không mất tiền và phải nộp 15 đồng tiền ăn, vẫn còn “dôi ra” được 3 đồng…ăn tiêu  “xả láng” trong cả tháng. Anh/chị nào có người quen ở Hà Nội, cuối tuần được “mời” về ăn bữa cơm thì luôn nhớ báo cắt cơm để cuối tháng thanh toán có thêm mấy hào xông xênh!
Sau năm 1975, nhu cầu vào đại học tăng lên nhưng ngân sách giáo dục không đáp ứng kịp, nhà nước cho phép các trường tăng chỉ tiêu tuyển sinh (theo khả năng tiếp nhận của Trường) nhưng chỉ tiêu được cấp học bổng vẫn không đổi. Chẳng hạn năm học 1976-77, ĐH Bách khoa Hà Nội có chỉ tiêu (được bao cấp) là 600, ngân sách nhà nước cấp cho trường tính toán dựa theo con số 600 đó. Thế nhưng do nhu cầu học tập của người dân, mặt khác xét thấy điều kiện cơ sở vật chất cho đào tạo của trường còn có thể tận dụng để đáp ứng nên nhà nước cho phép tuyển thêm một chỉ tiêu là 400 sinh viên nữa. Số 400 sinh viên này không được ngân sách nhà nước đảm bảo nên không được nhận học bổng và còn phải đóng góp một phần kinh phí, chủ yếu là chi trả tiền giảng dạy, thí nghiệm v..v..Như vậy trong các nhà trường có hai loại sinh viên: một số sinh viên (hệ A) được học bổng và không nộp học phí và một số sinh viên (hệ B) phải đóng học phí.
Tuy vậy, việc thi tuyển sinh vẫn tiến hành rất nghiêm túc, điểm tuyển sinh đầu vào và điểm thi hàng năm quyết định sinh viên được xếp loại được cấp học bổng hay không: khái niệm hệ A hệ B dần đã bị xóa hẳn:  đây là một điều rất tích cực có tác dụng lớn khuyến khích và kích thích sinh viên học tập.Tình hình như trên diễn biến trong hơn 10 năm một cách bình thường và hoàn toàn được xã hội chấp nhận.
Cho đến những năm 1985-86 thì bắtt đầu có những chuyển biến đột xuất. Một vài trường đại học có số thí sinh rất đông muốn tăng chỉ tiêu tuyển sinh để lấy thêm những thí sinh không đạt điểm tuyển vào trường theo qui định đề xuất với Bộ Đại học tuyển thêm “hệ mở rộng – hệ B mới”, phải đóng học phí cao hơn hẳn so với các học sinh trúng tuyển bình thường (kể cả diện có học bổng và không có học bổng). Một trường làm được thì nhiều trường khác cũng đua nhau làm theo. Hơn nữa đây là một hình thức “thỏa thuận” nên trong một thời gian khá dài không có qui chế thực hiện, không có kiểm tra từ phía Bộ chủ quản nên các trường tha hồ “trăm hoa đua nở” – nhiều trường khó tuyển sinh lại càng “hăng hái” ra sức thu hút sinh viên thậm chí trong xã hội còn lưu truyền câu nói là : “Hệ đại học mở rộng là hệ đánh trống ghi tên
Tất nhiên việc làm đó cũng phải kết thúc tất nhiên là có để lại một số hệ quả khá nặng nề đối với hàng nghìn sinh viên trong vài ba khóa học vì rõ ràng là khi ra trường thì  bằng cấp, chứng chỉ của các hệ B mới đó không được xã hội thừa nhận.
Một số trường sau đó có “sửa sai” bằng cách tổ chức cho sinh viên học thêm một thời gian nào đó để “chuẩn hóa bằng” nhưng rồi cũng không có tác dụng thiết thực.
Không đáng ngạc nhiên là sau đó phong trào đánh trống ghi tên vào đại học tự nhiên bị dẹp bỏ. Điều khó hiểu là hình như chẳng có một sự tổng kết đánh giá, kết luận cụ thể nào và cũng không có sự can thiệp có tính pháp lý nào của các cơ quan quản lý nhà nước!
Cũng chính vì sự tồn tại loại hình “mở rộng ào ạt” đó mà sau này khi Viện Đại học Mở ra đời thì mãi hàng chục năm vẫn có người – kể cả một vài người có tai có mắt ngay ở Bộ Giáo dục và đào tạo - vẫn tưởng Viện Đại học Mở là một loại nhà trường “mở toang” theo kiểu đó.
Năm đầu tiên Viện Đại học Mở Hà Nội tổ chức tuyển sinh đầu vào cùng với kỳ thi chung của cả nước, tỷ lệ trượt khá lớn, đã có một tờ báo vẽ tranh biếm họa cổng Viện Đại học mở Hà Nội với 5 ổ khóa to tướng (biểu thị cho 5 khoa) với lời chú thích: “Đồng bào chú ý: đây là cổng Đại học MỞ!!!

Phần IV: Và thế là phương hướng xác định : Viện Đại học Mở Hà Nội ra đời.
Năm 1992, tập hợp được một số chuyên gia tâm huyết và học tập được một số kinh nghiệm qua trao đổi quốc tế, lãnh đạo Viện Đào tạo mở rộng I bắt đầu tổ chức những đoàn khảo sát đi về làm việc với các địa phương và các Sở Giáo dục – Đào tạo, các Trung tâm giáo dục địa phương. Dấu chân của những Ông Nguyễn Kim Truy, Ông Phan Văn Quế, Ông Phan Trọng Phức, Ông Lê Văn Thanh…và một số “cán bộ chủ chốt của Viện” – những người  chưa hề nhận lương bổng hoặc phụ cấp gì của Viện  như Ông Lâm Quang  Thiệp, Ông Lê Viết Khuyến, Ông Vũ Cao Phan, Ông Hoàng Minh Luật…rồi Ông Thái Thanh Sơn, Ông Lê Văn Nhương, Ông Vũ Tiến Cảnh v..v..đã đi khắp Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, …Nghệ An, Quảng Bình, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Tây Nguyên …. Viện cũng đặc biệt chú trọng đến các trường sĩ quan trong quân dội: Học viện quốc phòng,  trường sĩ quan Công binh, Phòng không – không quân, Hậu cần v..v.. để tìm hiểu nhu cầu học tập và những phương thức, loại hình đào tạo thích hợp sau này có thể vận dụng cho các đối tượng học viên đó.
Quá trình thâm nhập đến các địa phương đã mang lại cho cán bộ trong Viện Đào tạo mở rộng I những hiểu biết và nhận thức rõ rệt về nhu cầu thực tiễn của đào tạo sau Trung học hiện nay ở Việt Nam cũng như đối chiếu, so sánh tình hình thực tế Việt Nam để tìm cách ứng dụng những kinh nghiệm quốc tế thu thập được.
Về mặt quan hệ quốc tế, Viện vẫn tích cực tranh thủ mọi cơ hội để tiếp tục phát huy mạnh mẽ.
Một đoàn đại biểu của Viện đã được mời thăm chính thức và khảo sát tại hai trường đại học mở có danh tiếng của Thái Lan : ĐH Mở SukhoThai Thammathirat và ĐH Mở Ramkhamheng. Một sự động viên tinh thần to lớn là Quốc vương Thái Lan Bumibol Adunzadet đã tặng Viện một chiếc ăngten parabol làm biểu tượng cho phương thức đào tạo từ xa qua hệ thống phát thanh (thời đó là phương tiện truyền thông chính sử dụng ở Thái Lan).
Với đường lối mở rộng quan hệ hợp tác với các nhà khoa học và giáo dục có kinh nghiệm trong nước, với sự thực sự cầu thị nghiên cứu học tập quốc tế, chỉ sau 2 năm thành lập, Viện Đào tạo mở rộng đã bước đầu xác định được mục tiêu, đường lối và phương thức phát triển lâu dài sau này của mình làm tiền đề cho việc tiến đến đề nghị Nhà nước quyết định thành lập Đại học Mở Việt Nam : một loại hình đào tạo mới một sản phẩm của nền kinh tế thông tin, nền kinh tế tri thức, của kỷ nguyên mới : kỷ nguyên Học suốt đời: Học để biết. Học để làm,. Học để tồn tại và Học để chung sống.

Sau một thời gian tích cực chuẩn bị, bộ phận lãnh đạo của Viện Đào tạo mở rộng I đã đủ cơ sở thực tiễn để báo cáo với Bộ xin phép cho đào tạo thí điểm một số chuyên ngành ở bậc đại học để tập hợp cán bộ và hình thành tổ chức quản lý đào tạo, chuẩn bị  chương trình, giáo trình …Và ngày 27/10/1992 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra quyết định cho phép Viện Đào tạo mở rộng I tổ chức đào tạo chính qui 4 ngành học: Kế toán, Quản trị kinh doanh, Tiếng Anh và Tin học. Tiếp đó ngày 04/3/1993 Bộ đã ra quyết định cho phép thành lập trong Viện Đào tạo mở rộng I, ba Khoa đào tạo bậc đại học: Khoa Kinh tế - quản trị kinh doanh, Khoa Tiếng Anh và KhoaTin học.
Cuối năm đó, thừa ủy nhiệm của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phó thủ tướng Nguyễn Khánh đã ký quyết định số 553/TTg ngày 03/11/1993 cho phép thành lập
:   Viện Đại học Mở Hà Nội
Viện Đại học mở Hà Nội: Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, tạo cơ hội học tập cho mọi người!
Viện Đào tạo mở rộng I đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình trong  thời gian ngắn ngủi không đầy 3 năm, đầy vất vả khó khăn nhưng đã kết thúc một cách vinh quang !
Cũng trong năm 1993, hai đoàn đại biểu của Viện Đại học Mở Hà Nội đã tham dự các đại hội hàng năm của AAOU – Hiệp hội các đại học mở Châu Á – Asian Association of Open Universities  tại Hongkong và tại Ấn Độ: Viện Đại học Mở Hà Nội chính thức trở thành thành viên của tổ chức AAOU.

Hà Nội Tháng 8 năm 2013

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

Họp mặt Quốc học HUẾ

HỌP MẶT ĐỒNG MÔN QUỐC HỌC HUẾ 2013

Sau lần lỡ hẹn năm 2012, năm nay với sự cố gắng của Ban Liên lạc đồng môn, cuối cùng Đồng môn Quốc học HUẾ tại Hà Nội cũng tổ chức được một cuộc họp khá "hoành tráng", nhờ địa điểm tại Phòng họp Nhà Xuất bản Khoa học xã hội - 36 Phố Hàng Chuối, Hà Nội.
...Mà cái khái niệm "QUỐC HỌC HUẾ" thực ra là khá tù mù !!! 
Trước Cách mạng Tháng 8/1946 ở bờ Nam sông Hương trong kinh đô Huế có một "cặp Trường" đứng cạnh nhau: Lycée KHẢI ĐỊNH và Collège ĐỒNG KHÁNH. Sau CM Tháng Tám tạm đổi tên là Trường Trung học chuyên khoa Khải Định và Trường Nữ trung học Đồng Khánh.
Sau khi vỡ mặt trận Huế năm 1946, trường dời ra tái lập vùng kháng chiến Liên khu 4 đóng tại Đức Thọ, Hà Tĩnh lấy tên là chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng từ năm 1948 đến 1950 và sau đó chuyển sang Bạch Ngọc, Đô Lương, Nghệ An. 
Trong vùng tạm chiếm sau năm 1948, trường Khải Định được khai trường trở lại và sau đó đổi tên là Quốc học Huế.

Vậy thì ai là học sinh Quốc học Huế???

Thôi thì phiên phiến đi...ai cũng được miễn là có tình yêu đối với ngôi trường đó.

Sau mấy ngày "Ông Ngâu Bà Ngâu" sụt sùi, sang hôm nay 11/8 -mồng 5 tháng 7 Ta - trời hửng sáng mát dịu. Về dự họp có gần 40 bạn đồng học thuộc nhiều thế hệ: một số rất ít học sinh Khải Định cũ trước 1946 như: Đặng Văn Việt (hùm xám đường số 4), Phạm Khắc Lãm, Phạm Tuyên, Phi Phi, Nguyễn Xuân Chánh, Thái Thanh Sơn...khá đông học sinh Quốc học Huế giai đoạn sau 1948 như Trần Nguyên Vấn, Hồ Tế, Thái Quang Hòe, Trần Đăng Nghi ...và một số học sinh Huỳnh Thúc Kháng như Phan Hữu Dật, Hoàng Kim Cúc, Nguyễn Văn Thuyên. Phan Hoàng Mạnh...

Chủ đề cuộc họp năm nay là giới thiệu bộ sách : QUỐC HỌC HUẾ XƯA VÀ NAY -  gồm 2 tập, hơn 1000 trang và hàng nghìn ảnh sưu tầm, ảnh chân dung , ảnh kỷ niệm của gần 900 đồng học, một công trình đồ sộ mà nhóm biên tập, đứng đầu là TRẦN NGUYÊN VẤN (Nhà thơ TRẦN HƯƠNG TRÀ) đã đổ bao nhiêu tâm huyết trong hơn 3 năm trời: VÔ CÙNG KHÂM PHỤC!!!

Hơi đáng tiếc là thế hệ học sinh Quốc học Huế về sau ( U40 ) dù hiện có mặt tại Hà Nội không ít nhưng chỉ có 1 người tham dự dù đã được thông báo đầy đủ! 

Phải rồi: NGƯỜI GIÀ NHÌN QUÁ KHỨ, NGƯỜI TRẺ HƯỚNG TƯƠNG LAI, chuyện đời là vậy!