Lục tìm được một bài thơ của Cụ Phan Bội Châu mà hơn 60 năm về trước chúng tôi thường dấu dấu diếm diếm chuyền tay nhau chép và đọc say sưa...
Buồn cho những tác phẩm, những tác giả như thế mà lâu nay vắng bóng trong...mọi quyển sách giáo khoa văn học từ lớp vỡ lòng đến cấp đại học...để nhường chỗ cho vài ba tác giả độc quyền nào đó.
Đọc lại vài lần...thấy ngỡ ngàng: Cụ Sào Nam kể chuyện ở đâu và thời nào ấy nhỉ???
Á TẾ Á CA
Ngồi mà nghĩ thêm sầu lại tủi,
Nước Nam mình gặp buổi truân chuyên.
Dã man quen thói ngu hèn,
Cũng như Minh Trị dĩ tiền khác đâu.
Từ giống khác mượn màu bảo hộ,
Mưu hùm tinh, lừa lũ voi già.
Non sông thẹn với nước nhà,
Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu
.
Việc dây thép, việc tàu, việc pháo,
Việc luyện binh, việc giáo học trường,
Việc công nghệ, việc nông thương,
Việc khai mỏ khoáng, việc đường hoả xa.
Giữ các việc chẳng qua người nước,
Kẻ chức bồi, người tước culi.
Thông ngôn kí lục chi chi,
Mãn đời lính tập, trọn vì quan sang.
Các thức thuế các làng thêm mãi,
Hết đinh điền rồi lại trâu bò.
Thuế chó cũi, thuế lợn bò,
Thuế diêm, thuế tửu, thuế đò, thuế xe.
Thuế các chợ, thuế trà, thuế thuốc,
Thuế môn bài, thuế nước, thuế đèn.
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền,
Thuế rừng tre gỗ, thuế thuyền bán buôn.
Thuế gò, thuế bãi, thuế cồn,
Thuế người chức sắc, thuế con hát đàn.
Thuế dầu mật, thuế đàn đĩ thoã,
Thuế gạo rau, thuế lúa, thuế bông.
Thuế tơ, thuế sắt, thuế đồng,
Thuế chim, thuế cá, khắp trong lưỡng kì.
Các thức thuế kể chi cho xiết,
Thuế xia kia mới thật lạ lùng,
Làm cho thập thất cửu không,
Làm cho xơ xác, khốn cùng chưa thôi.
Lại nghe nỗi Lào Cai, Yên Bái,
So muôn người như giải lũ tù.
Ăn cho ngày độ vài xu,
Việc làm gian khổ, công phu lạ lùng.
Độc thay phong chướng nghìn trùng,
Nước sâu quẳng xác, hang cùng chất xương.
Nỗi diệt giống bề lo bề sợ,
Người giống ta biết có còn không?
Nói ra sởn gáy động lòng,
Cha con khóc lóc, vợ chồng thở than.
Cũng có lúc bầm gan tím ruột,
Vạch trời kêu mà tuốt gươm ra.
Cũng xương cũng thịt cũng da
Cùng hòn máu đỏ, giống nhà Lạc Long.
Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Bốn mươi năm nhơ nhuốc lầm than.
Thương ôi! Bách Việt giang san,
Văn minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa.
Hồn mê mẩn tỉnh chưa, chưa tỉnh?
Anh em ta phải tính nhường sao.
Đôi bên, bên nọ, bên cừu,
Họ khôn phải học, cừu sâu phải đền.
Việc tân học phải đem dựng nước,
Hội dân đoàn, cả nước với nhau.
Sự buôn phải lấy làm đầu.
Mọi nghề cũng ghé địa cầu một vai.
Bây giờ kể còn dài chưa hết,
Chữ tự do xin kết bên lòng.
Gương Nhật Bản đất Á Đông,
Giống ta, ta phải soi trông kẻo nhầm.
Bốn mươi triệu đồng tâm nhất đức,
Mãnh hổ kia đem sức với quần dương.
Hiệu cờ nổi chữ tự cường,
Thay bầy nô lệ làm phường văn minh.
Kìa thuở trước như Anh, Pháp, Đức,
Cũng chẳng qua cùng cực tắc thông,
Hoạ may trời có chiều lòng,
Việt Nam dựng lại, phương Đông có mình.
Thân phiêu bạt đã đành vô lại
Bấy nhiêu năm Thượng Hải, Hoành Tân.
Chinh Nga nhân lúc hoàn quân,
Tủi mình bô bá, theo chân khải hoàn.
Bưng chén rượu ân ban hạ tiệp,
Gạt hàng châu khép nép quỳ tâu,
Thiên Nam mù mịt ngàn dâu,
Gió Tây như thồi dạ sầu năm canh.
Biết bao nỗi bất bình khôn giải.
Mượn bút hoa mà cải quốc âm,
Thân giun bao quản cát lầm,
Khuyên ai đúc chữ đồng tâm sau này.