Thứ Hai, 14 tháng 11, 2016

A. Grothendick, một đỉnh cao Toán học...

  Di chúc mật của một thiên tài Toán học

                  ALEXANDRE GROTHENDIECK 
                  SỐNG ẨN DẬT CHẾT LẶNG LẼ

 Một cụ già râu bạc trằng dài tời ngực đúng theo hình ảnh của một ẩn sĩ chán đời tránh mọi sự tiếp xúc…Đó là hình ảnh  mà người ta còn nhớ về nhà Toán học hàng đầu của thế kỷ . Alexandre Grothendieck (A.G),sống ẩn dật trong làng nhỏ Lasserre, ở tận góc  trời Ariège.( Pháp)
 Sadrine nhớ lại: “Một đêm nọ tôi suýt cán phải ông ta khi ông đang lang thang dò dẫm trong đêm tối, như một con nai lạc bầy. Không ngờ đó là một thiên tài Toán học đã được vinh danh trên thế giới.”
 Ở vùng núi hoang sơ quanh năm tuýêt phủ Couserans người ta gọi ông là “nhà bác học”. Thực ra người ta đâu có biết ông đã có những công trình khoa học gì, chỉ biết ông là nhà khoa học nổi tiếng được nước Pháp và cả thế giới kính trọng, tôn vinh. Thế thôi!  “.Cứ gọi ông ta là “ nhà bác học “ cho tiện, vì ông không tiếp xúc với ai, mà chẳng có ai dám lân la nói chuyện với ông. Còn tại sao ông về cái nơi heo hút này để sống, không bà con, anh em bè bạn nào đến thăm, suốt ngày đi lại từ ống khói đến bàn ăn? Không ai biết , mà chẳng có ai tìm hiểu  ,,,Sau khi ông qua đời ngày 13 tháng 11 năm 2014, người ta mới biết rõ ông là ai. Mọi câu chuyện về ông mới dần dần được làm rõ,
  Tờ báo “Giải phóng” của Pháp chạy một hàng tít dài : “Cái chết của một thiên tài muốn đời lãng quên”và “Nhà Toán học lớn nhất của thế kỷ qua đời”. Một con sói già cô độc đã trở thành một ngôi sao? Người trong làng nơi ông  cư trú cuối đời không ngờ ông già quái gỡ, cô độc đó lại là Alexandre Grothendieck (A.G), một trong những nhà Toán học lớn nhất sau Euclide. Ông ta đã đẩy Toán học lên một bậc thang mới như Einstein đã đẩy Vật lý , Lévi-Strauss đã đẩy Nhân chủng học lên một bậc thang mới. Cộng đồng khoa học lúc bấy giờ mới cấp tập đi tìm hiểu nhà Toán học nổi tiếng bị quên lãng này . Họ muốn chọc thủng bức màn bí mật bao quanh nhà khoa học ẩn mình trong núi 20 năm qua.
Trước hết  họ tìm hiểu “kho vàng”nổi tiếng: năm hộp bằng bìa cứng mà ông giao cho một học trò cũ tên là Jean Malgoir ở Montpellier năm 1991, năm hộp có thể chừa những công trình sáng tạo về Toán học chưa được công bố.. Tổng cộng gồm 20 000 trang gồm những phép tính cần thiết để hiểu về lý thuyết những motip, và những điều khác rất cần thiết cho những người “săn tìm” hạt boson của Higgs.
Một thiên tiểu thuyết                                                                   ..Năm 1912, Luc Gomel, người bảo vệ di sản của Đại học Montpellier có ý định sắp xếp lại những tài tiệu lưu trữ này của “ “tài sản quốc gia “ để bảo vệ và phổ biến sau này. Trước hết phải biết trong mớ hỗn độn tài liệu cất giữ trên tầng một là cái gì. Phải chính tác giả mới có thể trả lời được, còn Luc Gomel chỉ biết rằng đó là “ một đống tài liệu”. Thế thôi! Hàng ngàn phương trình, bức vẽ, bản nháp chờ các sinh viên của ông nghiên cứu, may ra mới trả lời được. Malgoire tin rằng một ngày nào đó tác giả của đống tài liệu này sẽ trở về sắp xếp , vì từ ngày ông ta viết ra ông chưa bao giờ xem lại.Nhưng khi tác giả qua đời cộng đồng khoa học mới dậm chân kêu lên: sao không lục ra tìm hiểu nội dung tài liệu lưu trữ khi ông còn sống!. Nếu biết được kho báu đó nằm ngoài lĩnh vực nghiên cứu  của mình thì nhà Toán học Cédric Villani  đã nghĩ rằng tài liệu chứa một điều gì đó “bất thường”.. “Phải kiên nhẫn”, Jean Malgoire vội vã trả lời. Trong khi đó ngoài hành lang của khoa, người ta thầm thì với nhau rằng việc giải mã tài liệu của A.G để lại là một công việc rất công phu , phải mất hàng tháng, hàng năm và biết đâu, hàng chục năm,,,
 Tiểu sử của A.G bắt đầu ở Bec-lanh vào cuối những năm 20, và là cả một thiên tiểu thuyết thực sự. Một câu chuyện nhuộm đầy vẻ sử thi !. Cha của A.G là một người Do thái gốc Nga, Sacha Schapiro, nhà nhiếp ảnh và chiến sĩ “ vô chính phủ’, muốn được tự do tuyệt đối trong tư tưởng và hành động, Mẹ là một nhà báo dấn thân tên là Hanka Grothendieck mà ông lấy tên.Cậu bé Alexandre được giao cho một người bạn của gia đình ở Đức, khi cha mẹ ông qua Tây ban nha năm 1934.
Sự quản thúc
 Vào cuối cuộc nội chiến Tây ban nha , ông tìm lại được cha mẹ ở miền Nam nước Pháp. Bị lưu đày, cha của ông chết ở Auschwitz; mẹ của ông và ông bị giam ở trại Lozère, nơi chính phủ Daladier giam cầm những “kẻ bướng bỉnh khó ưa” . Cậu bé A.G  cuốc bộ đi học ở trường Mende, cách đó 3 kilomet. Là một học trò ngoan, không xuất sắc gì, A.G làm Toán như mọi trẻ khác chơi bắt cướp.  Năm 1985 trong cuốn tự thuật viết năm 1985 dưới tên “ Gieo hạt và mùa gặt”, một cuốn sách đồ sộ khoảng 1000 trang ông viết:” Tôi học “định nghĩa của đường tròn” từ một người bạn gái ở cùng trại tập trung với tôi. Cô ta làm cho tôi rất có ấn tượng về tính đơn giản và hiển nhiên của nó, trong khi tính chất “tròn” hoàn toàn của đường tròn đối với tôi như một thực tế bí ẩn.”
Trong khi nhiều người học Toán ở Trung tâm này Đại học nọ thì A.G lại tự học trong trường đời. Có một điểm đặc biệt, rất đặc biệt là “A.G không học Toán mà phát minh Toán”. Tự giam mình một góc, ông định nghĩa lại hết, không cần biết đó là cái gì, từ tích phân Lebesgue đến lý thuyết tương đối về tích phân và độ đo. Ở Đại học Moontpellier, sinh viên ít chuyên cần.Ông cũng không mất công đi tìm bằng cấp cử nhân, là cái luôn chờ ông ở  Ban thư ký. Năm 1948 chàng trai trẻ này đến Paris, Ông được tiến cử đến Henri Cartan, là người muốn xây dựng lại Toán học Pháp.Rồi ông gia nhập vào nhóm bảo vệ Toán học hiện đại ở Nancy của Laurent Schwartz và Jean Dieudonné. A.G nhận được ngay một lời “mắng” của J. Dieudonné : “Không phải cách làm việc như vậy”,  khi thấy ông mày mò chứng minh lại hết các định lý mà người khác đã chứng minh rồi.                                                           Hai danh sách gồm 14 bài Toán chưa giải được giao cho ông như một thử thách . Cái “thủ tục ban đầu“ ấy đã được ông hoàn thành mỹ mãn: không đầy một năm ông đã giải quyết xong trọn vẹn. Và như là một “bài học” cho các giáo sư, người học trò ấy mở ra một hướng mới của Toán học. Ông lao đầu vào làm việc cật lực để hoàn thành sáu luận án Tiến sĩ trong vòng chưa đầy bốn năm. Năm 1958,trong khi người mẹ chết về bệnh lao vì thiếu chăm sóc, thì ông đang xây dựng lại  toàn bộ Hình học đại số. Chỉ có thế!
Ngắt quãng.                                                                                  Vì mỗi người đều cảm thấy rằng cần phải xây dựng một cái gì đó xung quanh nhà Toán học “ ngoại cỡ” này nên Viện nghiên cứu Khoa học cao cấp ra đời. Những nhà nghiên cứu không bị bắt buộc phải công bố đề tài,và cũng không phải lên lớp. Yêu cầu duy nhất là gì? Ăn sáng và uống trà chung để tự do trao đổi ý tưởng. Chính thời gian này A.G cùng với các học trò Michel Demazure, Luc Illusie, Michel Raynaud và Pierre Deligne soạn ra “ Những yếu tố của hình học đại số”, mà ngôn ngữ và nội dung rất xa lạ khó hiểu, theo cách nói của những người “ngoại đạo”, đúng là  một thánh đường khái niệm, một hòn đá tảng của đại số hiện đại.
 Và sau đó là một sự đoạn giao. Năm 1966 ông được giải thưởng Field về Toán học, nhưng ông không “bõ công” đến Maxcơva để lấy. Không phải chỉ vì nước Nga trước kia đuổi cha ông mà để biểu thị sự phản đối nhà cầm quyền Nga đã bắt Andrei Siniavski và Iouli Daniel vào trại tập trung vì đã phát hành những ấn phẩm cấm.  Năm sau ông đến Việt nam và ở lại đó ba tuần để phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Đế quốc Mỹ, và để trao tặng số tiền đấu giá huy chương Field.  Hành động “quá tả” của ông, theo quan điểm chính quyền Pháp , khiến ông bị sa thải khỏi chức vụ giáo sư ở trường Đại học. Cũng gần như ngay lúc đó ông phát hiện ra một phần nhỏ ngân quỷ của  Viện nghiên cứu khoa học cao cấp đến từ Bộ Quốc phòng. “Phần nhỏ “ hay  không  đối với người dấn thân thì đều là lớn!
  Năm 1977, “ đầu óc tự do”, như mọi người gọi ông, nhận được Huy chương Emile-Picard của Viện Hàn lâm Khoa học ; rồi đến năm 1988 được giải thưởng Crafoord. Ông cũng không cho đó là điều quan trọng gì. Giải thưởng đầu ông đem biếu cho một học sinh cũ. còn giải thưởng Craford, vinh quang cho sự nghiệp khoa học thì ông từ chối một cách rất đơn giản. Số tiền 270.000 dollar , tức là 1,5 triệu franc lúc bây giờ  ( tương đương 5 tỷ 400 triệu VND) cũng không làm ông quan tâm mà chỉ làm ông khó chịu. Và như trong bức thư từ chối mà  ông gửi cho Ban Thư ký Viện Hàn lâm Thụy điển, ông chờ sự phán quyết của thời gian để đánh giá sự phong phú của công trình của ông, mà tầm vóc của nó không còn nghi ngờ gì nữa.
Nhưng, như trong một cuốn tiểu thuyết, người anh hùng có nhiều cuộc đới,  A.G, nhà Toán học dày dạn kinh nghiệm, lại đi tiếp con đường của “ nhà bảo vệ môi trường”một cách quyết liệt. Từ Montpellier trỏ về, ông thành lập nhóm  “ Sông sót hay là sống”. “ Đó là một con người say mê-theo lời kể của Jean Malgoire-. Bằng cỗ máy 2 mã lực ông đem chúng ta đến nghỉ cuối tuần ở nông thôn và trình cho chúng ta cái nhìn của ông về môi trường, về cuộc sống giản dị, về sự từ chối của ông với cuộc sống có điện…Ông mong ước Toán học áp dụng vào thực tế hàng ngày. Ông đi trước tất cả “. Có thật như thế không? Năm 1991 A.G không còn thiết tha gì đến sự tiến triển của thế giới khoa học- hay nói gọn là thế giới -  ông rút lui xa hẳn, ẩn mình trong dãy núi Pyrénée, trong làng Laserre, và múốn đời quên mình đi. Không ai đến thăm, không quan hệ với ai, đó là quy tắc. Chỉ thỉnh thoảng có sự liên hệ với thầy giáo cũ. Ông có còn viết không? Malgoire cho rằng “ không nghi ngờ gì nữa, ông còn viết”. Hàng ngàn trang, vài ý tưởng về Toán học vẫn liên tục đến với ông “từng đợt”, vài vần thơ tình dục, những bài viết thần bí…”Einstein Pháp này trông như một người ăn lương tối thiểu. Với thời gian tôi hiểu một cách đơn giản rằng A.G không chịu đựng được sự tồn tại của cái xấu”, theo lời thổ lộ của Leila Schneps, người rất gần gũi với nhà Toán học và là thành viên của ê-kip giải tích đại số của Jussieu .Leila Schneps nói tiếp:“A.G không chấp nhận một sự thật: có những người có ý định tốt của thế giới nay, vẫn sống chung với nó mà không làm gì hết.!        Ẩn sĩ A.G sẽ nghĩ gì khi thấy đám đông tập trung tại trung tâm Rabelais de Montpellier  ngày thứ tư 17 tháng 12 năm 2014 ? Chiều hôm đó, nhà Triết học và Viện sĩ Jean-Luc-Marion  bỏ không đến dự một cuộc họp quan trọng, và đề nghị  Bertrand Toen thay thế mình. Ông phải đến dự một cuộc hội thảo do ông tổ chức và thuyết trình.  Đề tài của cuộc hội thảo là gì? Là Alexandre Grothendieck. Trẻ, già, sinh viên khoa Toán hay chỉ đơn giản là những người mới bước vào Toán học, cả khán phòng đầy kín người, người ta phải mắc thêm một màn ảnh ở ngoài trời để cho những người không vào được bên trong không bị mất một tiếng nào trong cuộc hội thảo. Và ngay sau đó, các câu hỏi tập trung vào “kho vàng”.Theo Toen, chỉ một phần rất nhỏ của những nhà Toán học ngày nay có thể giải thích được tác phẩm của A.G. Không nghi ngờ gì nữa, những hộp bằng bìa cứng mà A.G để lại chứa những dữ kiện quyết định . Ai trong các nhà nghiên cứu ở Princeton có thể thay thế được A.G tạo dựng ra một nền Toán học mới từ “lý thuyết của những mô-tip và những phạm trù cao cấp” ?.
Bục thờ linh vật
“A.G không tìm cách giải quyết những bài Toán mà chỉ nêu ra. Đó là điều khó nhất”, theo phân tích của Nikolas Saby, hiện thân của thế hệ các nhà Toán học mới ở Montpellier.. “ Ông là người sáng tạo ra ngôn ngữ như Nietzsche đã làm cho tiếng Đức và Du Belley đã làm cho tiếng Pháp.”. Rồi ông nói tiếp: “Đó là những sai lầm của ông, những nét gạch xóa của ông,, những ngõ cụt của ông, những tiến trình mà đối với ông là quan trọng để nghiên cứu trong hàng ngàn bản ghi chép mà ông để lại”. Lại còn vấn đề thừa kế gia tài của ông Nếu một số hộp bìa cứng  nào đó đựng những tài liệu của ông để lại cho  Đại học, thì những phần còn lại là thuộc quyền thừa kế của năm đứa con mà lâu nay ông không gặp, trừ lúc cuối đời.
Trong khi chờ đợi hội đồng do Jean Malgoire lãnh đạo phân phối nhiêm vụ giải mã các tài liệu Toán học của A.G để lại, thì đây là  thời điểm của “ tục thờ linh vật” trên khuôn viên Đại học Montpellier. Ở thư viện một số sinh viên thử sắp xếp lại những phiếu mà nhà Toán học đã ghi  vẫn còn dấu vết trong một số sách của ông ta. Đối với Bertrand Toen, sự hâm mộ này báo hiệu một điều rất tốt lành vì Toán học rất cần những người nhiệt tình, say mê như thế./.

(Trong Le Point 19/ 2/2015)     PHAN THANH QUANG 

Thứ Ba, 20 tháng 9, 2016

BỒI HỒI NHỚ LẠI..



BỖNG TỪ NƠI SÂU THẲM VỌNG LÊN NỖI NHỚ...

Hôm nay tôi trở về thăm Trường cũ
Vườn  đó trường đây người cũ đâu rồi???








Thứ Tư, 24 tháng 8, 2016

Chuyện KHÓA KHÔNG ĐHBK Hà Nội

CHUYỆN KHÓA KHÔNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA (HÀ NỘI)


 Bất kỳ một tổ chức huấn luyện, đào tạo nào cũng thường đánh số thứ tự những thành viên đã trưởng thành từ cái nôi đào tạo của tổ chức mình: Sinh viên khóa 4 trường X, Học viên khóa 15 Viện T v..v..
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cũng vậy: Từ những Cụ sinh viên khóa 1, khóa 2 vào trường từ những năm 1956, 1957 và tốt nghiệp ra trường năm 1961, 1962…nếu chưa đi chơi xa không về thì cũng đã nghỉ hưu từ hàng chục năm nay cho đến các khóa cháu chắt như khóa 57, 58, 59, 60 đang ríu rít chuẩn bị kỷ niệm 60 năm thành lập trường và cả vài nghìn cô cậu đang náo nức chờ khoác cho mình danh hiệu: ĐHBK HN khóa 61.
Thế nhưng ở ĐHBK HN còn có một lớp người đặc biệt: Các cụ khóa không – KHÓA 0. Thế là thế nào?
Trước hết, phải nói rằng tên gọi khóa 0 có hai điểm sai cơ bản.
-         Điểm sai thứ nhất làỉ có bằng cấp mà không có kiến thức: Khóa 0 gồm và chỉ gồm những người được cử về công tác ở trường ĐHBK trước ngày 15/10/1956, nghĩa là trước ngày có quyết định chính thức thành lập trường, vậy rõ ràng họ đều không được đào tạo từ ĐHBK Hà Nội và không thể xem là một “khóa” nào của ĐHBK HN cả.
-         Điểm sai thứ hai là về mặt toán học: Trong tập hợp số nguyên thì số không liền kề trước số 1. Nếu khóa 1 tốt nghiệp ra trường năm 1961 thì khóa 0 tốt nghiệp ra trường năm … 1960, và đương nhiên các giảng viên khóa 0 không thể nào lên lớp dạy cho sinh viên khóa 1 từ năm 1956.
Cái tên gọi sai lè lè như vậy, vô lý như vậy nhưng đã 60 năm qua mọi người – cả trong trường BK và cả ngoài xã hội – dều chấp nhận và sử dụng một cách vui vẻ, trân trọng và có chút tự hào.
Tại sao vậy? Là vì tên gọi khóa 0 đã gắn chặt những người cán bộ khóa 0 với trường ĐHBK thân yêu, thể hiện sự trân trọng đối với nhứng “công thần mở lối” của trường, xem họ là một bộ phận gắn liền không thể tách rời của nhà trường.
Vậy khóa 0 ĐHBK HN dùng để chỉ những ai? Kể ra cũng không nhiều lắm, và đến nay còn lại thì thực cũng rất ít.


Sau khi hòa bình lập lại ở Miền Bắc năm 1954, cùng với việc củng cố xây dựng lại hai trường ĐH Y – Dược và ĐH Sư phạm trên cơ sở những tổ chức đào tạo đã có trong vùng kháng chiến cũ và mới tiếp quản từ vùng tạm chiếm, Đảng và Nhà nước chủ trương chuẩn bị thành lập một số trường Đại học: Tổng hợp, Bách khoa, Nông Lâm, và Kinh tê Tài chính.
Tháng 3/1956, Bộ Giáo dục ra quyết định thành lập Ban Tổ chức trường Đại học chuyên nghiệp Bách khoa, trực thuộc Vụ Giáo dục Đại học và chuyên nghiệp, do Ông Hoàng Xuân Tùy, một sĩ quan chính trị cao cấp đã có qua đào tạo về kỹ thuật, làm Trưởng ban và bộ phận công tác gồm 9 người đảm nhiệm mọi việc tổ chức, hành chính, tài vụ - chưa hề có cán bộ, nhân viên nào thuộc mảng công tác chuyên môn, giảng dạy.
Mãi đến ngày 1/7/1956 Bộ Giáo dục mới quyết định cử 28 giảng viên đầu tiên về chuẩn bị thành lập các Bộ môn : Toán (13 người), Vật Lý (8 người) Hóa (5 người) và Địa chất (2 người). Họ là sinh viên từ các nguồn: Sư phạm Cao cấp và Khoa học cơ bản ở Khu Học xã Nam Ninh, Dự bị đại học rồi Sư phạm cao cấp Liên khu IV vùng kháng chiến cũ, Đại học sư phạm và Đại học khoa học thuộc Viên Đại học Hà Nội trong cùng tạm chiếm cũ, tốt nghiệp năm 1955 nhưng Bộ không phân công công tác ngay như các bạn cùng khóa mà giữ lại, tổ chức mời các giáo sư tốt nhất trong nước có thể huy động trong thời đó để bồi dưỡng liên tục 3 kỳ học trong 1 năm về các lĩnh vực: Triết học Mác Lê Nin – GS Trần Văn Giàu và GS Hoàng Xuân Nhị, Nguyên lý Giáo dục học – GS Cao Xuân Huy, Toán – GS Lê Văn Thiêm và GS Nguyễn Thúc Hào, Vật lý – GS Vũ Như Canh và GS Ngụy như Kontum. Một vài cán bộ cao cấp trong chính phủ đồng thời là những nhà khoa học, sử học lớn như Tạ Quang Bửu, Trần Huy Liệu …cũng tổ chức những báo cáo chuyên đề cho khóa đào tạo đặc biệt đó.
Tiếp ngay sau đó bổ sung thêm 1 kỹ sư ở Cục công binh (Nguyễn Sanh Dạn), 1 kỹ sư ở Tổng Cục địa chất (Nguyễn Văn Chiển), 3 kỹ sư Việt kiều ở Pháp (Lê Tâm, Nguyễn Như Kim, Lê Bảo)  và 2 kỹ sư được cử đi đào tạo ở Liên Xô cũ mới về (Phạm Đồng Điện, Nguyễn Đức Thừa) và 1 phiên dịch tiếng Nga (Nguyễn Bá Hưng – từ học viện ngoại ngữ Bắc kinh). Còn có 4 cán bộ chính trị quân đội được chuyển ngành về, chuẩn bị cho các môn giáo dục chính trị (nhưng sau đã chuyển đi nới khác).
Những người trong số 12 người này ở lại lâu dài cùng với 28 người ở các bộ môn Toán, Lý, Hóa nói trên lập thành đội ngũ cán bộ giảng dạy khóa 0 của Trường (thời đó chưa có hệ thống chức danh giảng viên nên người đi dạy gọi chung là cán bộ giảng dạy)– và chỉ có họ mới đúng là khóa không của Đại học Bách khoa (Hà Nội).
Tháng 8 năm 1956 những cán bộ giảng dạy và công nhân viên khóa 0 đó – bao gồm cả 2 đồng chí bảo vệ và 3 cô cấp dưỡng, đã đóng cửa niêm phong khu vực trường (khi đó chỉ gồm nhà D, nhà E và nhà F) để cơm đùm cơm nắm, bắt tuyến xe điện leng keng lên tổ chức thi tuyển sinh khóa 1 tại trường Trung học Trưng Vương ở Phố Hàng Bài.


Thế mà đã 60 năm! 

Thứ Tư, 20 tháng 4, 2016

LẠI MỘT KẺ RA ĐI...

VĨNH BIỆT NHÉ!

ĐẶNG NGHIÊM HOÀNH, MỘT ĐỜI TÀI HOA...

Ban liên lạc Lớp cựu học sinh Hùng Vương - Văn Bán, Phú Thọ, khóa 1952 vô cùng thương tiếc báo tin:

Bạn Đặng Nghiêm Hoành, sinh ngày 24/11/1934 đã qua đời ngày 14/4/2016 hưởng thọ 82 tuổi.
Tang lễ cử hành ngày 20/4/2016 tại nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, phố Trần Thánh Tông.
Các bạn bè trong nhóm có mặt tại Hà Nội: Nhạn, Quốc Sơn, Thanh Sơn, Giám, Đô, Hồng Mai ... cùng các nàng dâu: Thanh (Lân), Hương (Vị) ... đã đến tiễn đưa







Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2016

Thứ Tư, 23 tháng 3, 2016

Rulate!

KHÚC CA NGÀY ẤY...

Nửa thế kỷ trước, trên đất nước mịt mù khói đạn chiến tranh, ở một vùng rừng núi xa xôi đêm đêm bên ngọn lửa bập bùng vẫn vang lên những khúc nhạc với lời ca...tiếng Nga, tiếng Việt, tiếng Tày vô tư, trong sáng, yêu đời:
H8 bên bờ sông Kỳ cùng...
Những ai còn nhớ bài hát Rulate, dân ca Phần Lan

Lời Nga: Pулатэ

Pула  тэ Pула тэ Pула тэ Pула
Pула  тэ Pула тэ Pула ла ла
Pула  тэ Pула тэ Pула тэ Pула
Pула тэ Pула тэ Pула ла ла
Если  к другому уходит невеста
Tо неизвесно кому поверло

Dịch: Rulate !!!
Nếu bạn gái bỏ đi theo kẻ khác
Nào biết đâu ai là kẻ gặp may!

Lời Tày: Tởi tẻo đay lai!

Dù xừ mì bát mí mì ca lăng hử kin lèng,
Oóc pay khửn lỉnh lai, Phạ ôi mốc giác lai!
Dù xừ mì bát mí mì ca lăng hử kin ngài
Vằn lừ tu cáy tu mò tởi tẻo đay lai!

Dịch: Đời lại đẹp sao!
Dù rằng có lúc chẳng có gì mà ăn sang,
Ra ngoài lên dốc nhiều, Trời ơi đói bụng quá!
Dù rằng có lúc chẳng có gì mà ăn trưa,
Ngày kia thịt gà thịt bò đời lại đẹp thay!





Chủ Nhật, 20 tháng 3, 2016

Chè xanh Xứ Nghệ

CHÈ XANH XỨ NGHỆ

Thị trường thế giới và Việt Nam đã và đang tràn ngập hàng chục ngàn thương hiệu trà - trong bài này ta chỉ nói đến thứ trà /chè sử dụng chủ yếu nguyên liệu từ lá cây chè một loại cây có tên khoa học là Camellia sinensis, họ Chè, THEACEAE. Nào là (chè) trà Tầu hay trà “xanh” - Trung quốc, Nhật bản, Đài loan, HongKong, Singapore...và tất nhiên là Việt Nam rồi trà đen Ceylan (SriLanka), Assam, trà Nga, trà Anh, trà sữa ngựa, sữa dê của người Turkestan, Uzbekistan...
Tuy cách chế biến có thể hòan tòan khác nhau, tạo ra những sản phẩm có hương vị, tác dụng khác nhau nhưng tất cả các loại trà/chè đó đều dử dụng búp chè non, sấy ủ và cho lên men theo những qui trình, bí quyết khác nhau.
Gần đây, thị trường Việt Nam rộ lên quảng cáo các loại Trà xanh Không độ, Trà xanh Wonderfarm, Trà xanh mật ong Pure green ...nghe giới thiệu là sử dụng lá chè xanh thiên nhiên không qua lên men.
Tuy nhiên tất cả các loại chè, các thương hiệu chè ấy đều là loại trà “quý tộc” ở một khía cạnh nào đó không thể nào so sánh được với cái thứ “nác chè xanh vừa lành vừa mát” đã gắn bó với hàng trăm thế hệ của người nông dân Việt Nam.

Kết quả hình ảnh cho Nước chè xanh


Những đêm mùa hè, nếu có dịp ghé lại một thôn xóm vùng Xứ Nghệ (Nghệ Tĩnh) quê tôi các bạn sẽ được chứng kiến - và có thể tham dự - một loại hình sinh hoạt thôn xóm rất độc đáo. Khỏang 9 - 10 giờ đêm nghe tiếng gọi qua bờ rào : “Mời Ông, Bà ....sang uống nác mới” . Và thế là từ các cụ già, các ông bà sồn sồn đến lũ trẻ em kéo nhau sang nhà chủ nhân - người đã đi quanh xóm thông báo lời mời. (Tôi có chú ý thấy đám thanh niên 18, 20 thường ít tham dự những buổi uống nước chè như thế này). Ai mời ? Tập hợp uống nước ở nhà ai? - Hoàn toàn không có qui định nào cả! Nhưng thông thường, không phải ai cũng có thể đứng ra mời mà phần nhiều là các gia đình “có vai vế” trong xóm luân phiên nhau đứng ra “đăng cai” những buổi uống nước như vậy. Buổi uống nước như là một buổi sinh hoạt câu lạc bộ hòan tòan tự nguyện, chủ nhà có rổ khoai luộc mang ra “chiêu đãi”, khách đến tham dự có mớ lạc, mấy bắp ngô luộc cũng có thể mang sang mời bà con. Và quanh nồi nước chè xanh trên bếp lửa hồng chuyện trò trên trời dưới đất râm ran mãi đến khuya khi tàn ấm nước.
Ở những xã vùng bán sơn địa xứ Nghệ, vườn tược rộng rãi, hầu như nhà nào cũng có một khỏanh vườn trồng chè. Nhà miệt dưới, đất đai chật hẹp hơn thì dọc bờ rào từ cổng vào nhà thường cũng trồng hai hàng chè xanh để tự cung cấp một phần cho nhu cầu gia đình.
Chè xanh sử dụng nguyên lá chè loại “bánh tẻ” không già quá, uống có vị quá chat nhưng cũng không non quá vị không đậm và không “được nước".

Có hai cách “pha chè”.
* Trong những buổi hội họp người ta nấu nước chè trong các nồi bộng - loại nồi to bằng đất nung mỏng tang của làng Chợ Bộng. Chọn kỹ lá chè không sâu không rách, vò qua ( không vò nát quá ) rồi khi nước sôi già thì bỏ lá chè vào. Chờ khi sôi lại, dung gáo dừa vớt lớt bọt nổi bên trên đổ đi và nhấn chìm lá chè xuống cho sôi thêm 15 - 20 phút thì hạ lửa xuống cho sôi liu riu và múc nước đổ ra bát: đấy là nước một hay nước mộc. Đổ thêm một lượt nước lã, đun lửa nhỏ cho đến khi sôi lại một lúc là được nước hai, đây mới là nước ngon nhất - nước cốt. Những nhà “có” ở vùng có trồng mía thường mang mật mía ( loại mật tự sản xuất, không thể cô lại thành đường phên, đường bánh) ra mời bà con ai thích thì cho thêm một vài thìa nhỏ cho “dậy mùi” và nghe nói là còn có thể làm thuốc chữa nhiều loại bệnh gỉ bệnh gì ấy! Hết nước nhì, có thể pha thêm nước lã để đun sôi uống nước ba ( nước này thường được nói trong câu ví : Chè hâm lại, Gái ngủ trưa ). Bã chè vớt ra rổ, nhiều thì phơi khô để dành nấu nước tắm trẻ em chống lở ghẻ, rửa tay sau khi làm cá làm mực, hay tắm chữa ghẻ cho trâu bò.
Nấu cơm còn có thể đun rơm đun rạ nhưng nấu nước chè tươi thì tối kỵ vì nước sẽ bị “oi khói”. Người ta thường dung củi sim củi mua củi “đuôi chồn” là các loại cây bụi mọc hoang ở sườn đồi ven rừng , về sau này có thể dung củi bạch đàn nhưng tốt nhất là dung gốc tre. (Hàng năm sau khi đẵn tre vườn để dùng hay bán, cuối năm người ta thường đào gốc tre lấy chỗ cho măng mọc, gốc tre tích trữ lại là một loại chất đốt rất quý để nấu bánh tét hoặc thỉnh thỏang đun nước chè)
Nước chè xanh không uống trong chén trong tách mà dùng bát đàn, một loại bát sành men thô, lớn hơn bát ăn cơm một chút, người uống vừa thổi vừa sì sụp húp vòng quanh. Hồi tôi còn bé còn có loại bát sành mộc chuyên dung uống nước chè gọi là cái “gùa” nhưng về sau này không thấy đâu có nữa, có lẽ không ai sản xuất.
Hương chè tươi ngát và nồng nàn, không loại trà tàu nào sánh được, hít một hơi hương chè tươi ta cảm thấy như mình đang đứng giữa thiên nhiên phóng khóang. Mùi hương đó có tác dụng kích thích con người ta hoạt bát tươi tỉnh hẳn lên : chuyện “trạng” ra ào ào suốt đêm tỉnh như sao. Chè tươi cũng có vị chat, uống vào dư vị ngòn ngọt mãi không hết, ăn củ khoai lang - nhất là khoai lùi - hay “sang hơn” cắn miếng kẹo Cu Đơ rồi làm ngụm chè tươi thì tưởng như không còn mỹ vị nào trên đời hơn được.
Cái tục lệ đêm đêm cả xóm tụ tập uống chè tươi âu cũng là một tập tục làm gắn bó tình làng nghĩa xóm, làm cho những người con xứ Nghệ dù đi đâu, ở đâu chân trời góc biển xa quê hàng chục năm trời cũng không bao giờ quên được niềm vui giản dị của quê hương.

Kết quả hình ảnh cho Nước chè xanh* Một cách uống chè xanh thứ hai, giống như kiểu uống chè xanh miền Bắc thường sử dụng trong các gia đình : người ta hãm chè chứ không nấu chè. Chọn lá chè ( thường non hơn chè tươi nấu một chút), vò nhẹ cho hơi dập lá, cho vào ấm tích rồi ủ vào giỏ. Giỏ tích thường đan bằng tre, có lớp lót bong để giữ nhiệt độ. Miền biển người ta dung vỏ quả dừa khô, cưa một phần làm nắp nạo hết ruột bên trong giữ lại phần xơ để làm giỏ tích, nhiều giỏ tích bằng vỏ dừa trang trí nghệ thuật rất công phu. Nước chè hãm trong ấm tích có thể để dành uống cả ngày, hết lại cho nước sôi vào uống được hai ba nước: Ăn cơm xong. Làm bát nước chè, khách khứa vào nhà, với cái ấm tích rót bát nước làm đầu câu chuyện...

Ngày nay, công nghiệp hóa, bao nhiêu cách chế biến mới, bao nhiệu thương hiệu chè xanh ra đời. Khoa học hiện đại nghiên cứu ra bao nhiêu là tác dụng của chè xanh, chè tươi, nào là chống ung thư (!), nào là giảm Cholesterol v..v..các nhãn hiệu trà xanh “trở về với thiên nhiên” quảng cáo khắp nơi.
Nhưng trong lòng những kẻ tha hương như tôi không bao giờ quên được những buổi uống nước chè đơn sơ mộc mạc ngày xưa. Quả thực uống chè tươi ngày ấy đối với dân Xứ Nghệ chúng tôi - miền đất nghèo sỏi đá phơi dưới gió Lào - là một phương thuốc bổ tinh thần vô giá: không biết có chống được ung thư, có giảm được cholesterol hay không nhưng rõ ràng nó là phương thuốc tăng lực, tăng ý chí cho những người con dân xứ Nghệ trên mọi nẻo đường???


Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2016

Bài ca nịnh Bu nó (băng cassette gửi từ Tananarive về Hà nội- ngày 14/2/1983)

... Ce jour là est fait pour nous deux
Un instant je ferme les yeux
Tu me fredonne 
Mieux que personne
La chanson tendre
Que j'aime entendre

Ngày hôm đó là dành cho đôi ta
Trong giây lát em nhắm mắt lại
Anh khe khẽ hát cho em nghe
Bài ca dịu êm mà em yêu thích
***
Roule s'enroule ma vie à la tienne
Roule s'enroule  ta chance à la mienne...
Coule s' écoule
Tendre tendresse
Que ie ne cesse de croire en toi...

Cuộc đời của em cuốn vào cuộc đời của anh
Số phận của anh cuốn vào số phận của em
Dịu êm dâng trào cuồn cuộn
Và không bao giờ em lại hết tin anh 




Chủ Nhật, 7 tháng 2, 2016

CHÀO XUÂN BÍNH THÂN!

Ai cho ta tìm lại được những mùa Xuân ấy
Vất vả khó khăn nhưng trong sáng tuyệt vời
Những mùa Xuân in đậm dấu trong đời
Năm tháng trôi đi: Xuân vẫn còn mãi mãi